Một chương trình máy tính có thể xem như một tác phẩm, bởi vì nó được đọc bởi bạn (có thể bây giờ,
mà cũng có thể là 10 năm sau!), và bởi những lập trình viên khác sau bạn (để phát triển, sửa chửa,
cập nhật ...). Chính vì lẽ đó, một chương trình máy tính nên đáp ứng cả 3 yêu cầu sau: đúng, dễ đọc
và dễ hiểu.
Mục đích của style là làm cho chương trình trở nên dễ đọc đối với người viết và những người khác,
một style tốt là một phần thiết yếu của việc lập trình tốt. Viết một chương trình chạy đúng là chưa đủ
bởi chương trình không chỉ để cho máy tính đọc mà còn để các lập trình viên khác đọc. Hơn nữa, một
chương trình có style tốt luôn có nhiều khả năng chạy đúng hơn một chương trình có style tồi. 1. Một tập hợp các chuẩn trình bày chương trình thông dụng.
2. Một thói quen để từ đó bạn có một phong cách lập trình tương đối chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, tài liệu này không có tham vọng đề cập đến toàn bộ các khía cạnh của một phong cách lập
trình. Nó chỉ nói đến những gì cần thiết để cho bạn, một sinh viên, khi chưa tìm được một phong cách
phù hợp tạo được những thói quen tốt ngay từ đầu. Tổ chức chương trình
1. Môđun hóa chương trình của bạn
Chương trình của bạn nên được tách thành nhiều môđun, mỗi môđun thực hiện một công việc và càng độc lập với
nhau càng tốt. Điều này sẽ giúp bạn dễ bảo dưỡng chương trình hơn và khi đọc chương trình, bạn không phải đọc
nhiều, nhớ nhiều các đoạn lệnh nằm rải rác để hiểu được điều gì đang được thực hiện.
Khi muốn chuyển thông tin cho các chương trình con, bạn nên sử dụng các tham số. Tránh sử dụng các biến toàn cục
vì làm như vậy bạn sẽ triệt tiêu tính độc lập giữa các chương trình con và rất khó khăn khi kiểm soát giá trị của chúng
khi chương trình thi hành. (Chú ý, bạn nên phân biệt giữa biến toàn cục và hằng số toàn cục)
2. Định nghĩa và cài đặt của các lớp phải được chia thành nhiều file để ta có thể dễ dàng tái sử dụng. Định nghĩa các
lớp được lưu trong các file header với mở rộng *.h. Cài đặt của các thành viên của lớp lưu trong file
nguồn với mở rộng *.cpp. Thông thường mỗi lớp có một cặp file *.H và *.CPP, nhưng có thể gộp các lớp có liên
quan vào một cặp file.Cuối mỗi file *.H là chỉ thị #include đến file *.CPP.Cuối mỗi file *.CPP là các "chương trình
chính" dùng để test file CPP đó kèm theo các #define thích hợp cho việc test. Chương trình chính được lưu trong một
file nguồn riêng và include các file header của các lớp được dùng đến.